1. Quy định chung về huỷ bỏ Hợp đồng
Theo quy định của Điều 423, Bộ Luật Dân sự 2015, một bên có quyền huỷ bỏ Hợp đồng, và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau:
“ a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
c) Trường hợp khác do luật quy định”
Theo đó, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ Hợp đồng được hiểu là “việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”[1]. Tuy nhiên, bên huỷ bỏ Hợp đồng cũng phải lưu ý về thời hạn thông báo việc huỷ bỏ, tức “phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”[2].
2. Một số trường hợp huỷ bỏ Hợp đồng.
Pháp luật cũng quy định một số trường hợp cụ thể, mà các bên có thể tiến hành huỷ bỏ Hợp đồng như sau:
Huỷ bỏ Hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ
Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền “yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng.”
Đặc biệt đối với trường hợp tính chất của Hợp đồng hoặc thoả thuận các bên cho thấy mục đích của Hợp đồng sẽ không đạt được nếu nó không được thực hiện trong thời hạn cụ thể, mà kết thúc thời hạn đó “bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng mà không phải tuân theo quy định tại khoản 1 Điều này.” Tức là bên có quyền không cần phải yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý và chờ họ không thực hiện. Mà bên có quyền có thể huỷ bỏ Hợp đồng luôn khi sự kiện chậm thực hiện nghĩa vụ xảy ra.
Huỷ bỏ Hợp đồng do không có năng lực thực hiện
“Trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền không thể đạt được thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”[3]
Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp tài sản bị mất, bị hư hỏng
“Trường hợp một bên làm mất, làm hư hỏng tài sản là đối tượng của hợp đồng mà không thể hoàn trả, đền bù bằng tài sản khác hoặc không thể sửa chữa, thay thế bằng tài sản cùng loại thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng.”[4] Như vậy trong trường hợp này, tài sản bị mất hư hỏng phải là đối tượng của Hợp đồng, ví dụ như Hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho ,vay, thuê khoán, mượn tài sản.
Bên có tài sản bị mất, hư hỏng ngoài quyền huỷ bỏ Hợp đồng, còn có quyền buộc “Bên vi phạm phải bồi thường bằng tiền ngang với giá trị của tài sản bị mất, bị hư hỏng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 351 và Điều 363 của Bộ luật này”[5].
3. Hậu quả pháp lý của việc Huỷ bỏ Hợp đồng
Theo quy định của Điều 427, BLDS 2015, khi hợp đồng bị hủy bỏ “thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.”Như vậy, hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ Hợp đồng, dẫn tới việc Hợp mất hiệu lực từ thời điểm giao kết. Cần phân biệt với trường hợp Hợp đồng vô hiệu, bởi Huỷ bỏ Hợp đồng thì các điều khoản về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và giải quyết tranh chấp vẫn có hiệu lực.
Ngoài ra “Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả. Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Trong đó, Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia sẽ được bồi thường theo thoả thuận và quy định của pháp luật.
Việc giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự và các quy đinh của pháp luật khác liên quan.
Lưu ý, trong trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định tại các điều 423, 424, 425 và 426 của Bộ luật này thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan[6].
[1] Khoản 2, Điều 423, BLDS 2015
[2] Khoản 3, Điều 423, BLDS 2015