Trước hết, người khuyết tật theo như quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật 2010 được định nghĩa là “người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.” Người khuyết tật dựa trên dạng tật và mức độ khuyết tật được quy định tại Điều 3 Luật Người khuyết tật 2010, tác giả tạm chia thành hai nhóm cơ bản:
-
Nhóm khuyết tật không gây mất năng lực hành vi dân sự, người khuyết tật trong trường hợp này vẫn có thể độc lập tham gia vào quan hệ dân sự hoặc thực hiện giao dịch dân sự như thông thường, bao gồm: Khuyết tật vận động; Khuyết tật nghe, nói; Khuyết tật nhìn;
- Nhóm khuyết tật gây mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 19, Điều 22, Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015, và khi tham gia giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật hoặc do người giám hộ xác lập, thực hiện bao gồm: Khuyết tật trí tuệ; Khuyết tật thần kinh, tâm thần.
Như vậy, trong khuôn khổ bài viết, tác giả sẽ chỉ tập trung vào phân tích nhóm thứ (1) khi người khuyết tật trực tiếp tham gia vào quan hệ dân sự hoặc thực hiện giao dịch dân sự. Còn đối với nhóm thứ (2), tác giả xin hẹn ở một bài viết khác trong tương lai để có thể phân tích chuyên sâu hơn. Ngoài các điều kiện về năng lực hành vi dân sự, người khuyết tật cần đảm bảo bản thân là người đã thành niên theo Điều 20 Bộ luật Dân sự là 18 tuổi trở lên. Khi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên, thì người khuyết tật hoàn toàn có thể tham gia vào quan hệ dân sự hoặc giao dịch dân sự như thông thường.
Theo quy định pháp luật Việt Nam, các văn bản nhằm xác lập quan hệ dân sự hoặc giao dịch dân sự cần phải thực hiện công chứng, chứng thực được chia thành hai nhóm cơ bản sau:
-
Nhóm hợp đồng liên quan đến Bất động sản: Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (điểm a khoản 3 Điều 27 Luật Đất Đai 2024), Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản (điểm b, khoản 3 Điều 27 Luật Đất đai 2024), Hợp đồng mua bán, thuê mua, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở thì phải thực hiện công chứng hoặc chứng thực hợp đồng (khoản 1 Điều 164 Luật Nhà ở 2023).
- Nhóm hợp đồng về động sản có đăng ký: Xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự; xe máy chuyên dùng của Công an sử dụng vào mục đích an ninh (điểm b khoản 2 Điều 8 Thông tư số 58/2020/TT-BCA ngày 16/6/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về quy trình cấp, thu hồi đăng ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ)
- Di chúc: Theo Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015: Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
-
Các văn bản khác: Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự (Điểm c, khoản 3 Điều 27 Luật Đất đai 2024); Thỏa thuận về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật (Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn (Điều 47 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý (Điều 96 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014); Trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người giám hộ cho mình thì khi họ ở tình trạng cần được giám hộ, cá nhân, pháp nhân được lựa chọn là người giám hộ nếu người này đồng ý. Việc lựa chọn người giám hộ phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực (Điều 48 Bộ luật Dân sự 2015), và các văn bản khác được quy định pháp luật.
Như vậy có thể hiểu, trong một số giao dịch hoặc xác lập một quan hệ dân sự, pháp luật yêu cầu các bên phải thực hiện việc công chứng, chứng thực như một biện pháp bảo đảm về tính đúng đắn và hợp pháp của giao dịch hoặc quan hệ dân sự mà còn đảm bảo sự an toàn của các bên khi tiến hành giao kết hoặc xác lập một quan hệ dân sự. Ngoài các quy định bắt buộc phải thực hiện việc Công chứng chứng thực theo sự bắt buộc của Pháp luật, các bên muốn bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp thì vẫn có thể tiến hành thực hiện công chứng hoặc chứng thực. Như vậy, nếu thuộc một trong các trường hợp nói trên, các bên có thể thực hiện việc công chứng, chứng thực ở các Văn phòng Công chứng hoặc Phòng Công chứng. Bên cạnh các thủ tục và quy trình công chứng, chứng thực như thông thường, người khuyết tật sẽ được Luật Công chứng 2014 hiện hành, và Luật Công chứng 2024 sẽ có hiệu lực vào ngày 01/7/2024 đảm bảo gồm:
Về thực hiện nghĩa vụ phiên dịch: Theo Điều 7 Luật Công chứng 2014, và Luật Công Chứng 2024: Chữ viết không phải là tiếng Việt hoặc sử dụng ngôn ngữ của người khuyết tật thì phải dịch sang tiếng Việt. Như vậy, việc người khuyết tật về các phần như khuyết tật nhìn, nghe, nói thì phải có người thông dịch để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng.
Về điều kiện của người phiên dịch, trong khoản khoản 3 Điều 47 Luật Công chứng 2014 và được định nghĩa rõ hơn ở khoản 3 Điều 49 Luật Công chứng 2024: Trường hợp người yêu cầu công chứng không thông thạo tiếng Việt hoặc là người khuyết tật nhìn, người khuyết tật nghe, nói thì phải có người phiên dịch. Người phiên dịch do người yêu cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc phiên dịch của mình. Người phiên dịch phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thông thạo tiếng Việt và ngôn ngữ mà người yêu cầu công chứng sử dụng hoặc là người biết chữ của người khuyết tật nhìn hoặc biết nghe, nói bằng ngôn ngữ, ký hiệu của người khuyết tật nghe, nói và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người phiên dịch phải dịch đủ, chính xác nội dung giao dịch, nội dung trao đổi của công chứng viên với người yêu cầu công chứng về quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của các bên khi tham gia giao dịch.
Đối với việc điểm chỉ thay thế cho chữ ký trong trường hợp người khuyết tật không thể tự mình thực hiện được việc ký kết hợp đồng hoặc không biết cách thực hiện việc ký kết hợp đồng sẽ được thực hiện theo khoản 2 Điều 48 Luật Công chứng 2014, Khoản 3 Điều 50 Luật Công chứng 2024: Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, sử dụng vân tay của ngón trỏ phải; nếu không sử dụng được vân tay của ngón trỏ phải thì sử dụng vân tay của ngón trỏ trái; trường hợp không thể sử dụng vân tay của 02 ngón trỏ đó thì sử dụng vân tay của ngón khác và công chứng viên phải ghi rõ trong lời chứng việc người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng vân tay của ngón nào, của bàn tay nào để điểm chỉ.
Như vậy có thể thấy, Luật Công chứng 2024 đã phần nào đã định nghĩa rõ ràng hơn và khắc phục phần nào các hạn chế hiện hữu liên quan đến các thủ tục công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, phạm vi tiếp cận và đối tượng tiếp cận của khái niệm này tương đối hẹp, chỉ dừng lại ở các quy định liên quan đến người khuyết tật về nhìn, nghe nói nhưng không đề cập đến hướng giải quyết hoặc hỗ trợ liên quan đến nhóm người khuyết tật về cơ thể khác như mất hai tay hoặc hai bàn tay,... Do đó, pháp luật về Công chứng tại Việt Nam cần thiết phải xem xét, nghiên cứu để có thể hoàn thiện hơn để có thể đảm bảo một cách tốt nhất cho mọi công dân, trong đó có người khuyết tật.